Tìm hiểu bài thơ "Tôi yêu em" của Pu-skin

04:38 |


TÔI YÊU EM
A. X. PU-SKIN


1. Pu-skin là đại diện xuất sắc của văn học Nga thế kỉ XIX. Ông thành công ở các thể loại như truyện ngắn, trường ca và thơ trữ tình. Thể loại nào của Pu-skin cũng đậm chất trữ tình và đề cao khát vọng tự do của con người. Nhưng với Tôi yêu em, Pu-skin luôn được nhắc đến với tư cách là nhà thơ tình vĩ đại. Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng thế giới, bài thơ đã gắn với tên tuổi Pu-skin trong lòng bạn đọc. 

2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ giãi bày tâm trạng theo mạch cảm xúc. Bài thơ được chia làm hai câu, mỗi câu hai vế, mỗi vế hai dòng thơ :

 Hai dòng thơ đầu : khẳng định tình cảm của nhân vật trữ tình “tôi” đối với em : vẫn còn yêu em.

 Hai dòng tiếp theo : tấm lòng hi sinh cao cả của nhân vật “tôi” dành cho người. Một biểu hiện cao thượng của tình yêu. Đây là phần lí trí.

 Hai dòng tiếp theo : cảm xúc và tâm trạng thật của nhân vật trữ tình. Đó là những trạng thái, cung bậc tình cảm rất chân thực của người đang yêu. Chứng tỏ tình yêu vẫn đang rất mãnh liệt và chân thành.

 Hai dòng cuối cùng : vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Dù là mối tình đơn phương nhưng tình yêu của nhân vật “tôi” là một tình yêu đẹp thể hiện một tâm hồn cao thượng. Vẻ đẹp của toàn bộ cảm xúc thơ toả sáng ở dòng thơ cuối cùng. Một lời tỏ tình, một cách thổ lộ tình yêu đẹp nhất và tinh tế nhất.

3.Đọc hiểu

“Mỗi chúng ta có một Pu-skin của mình, và chỉ có một Pu-skin với tất cả mà thôi. Ông đã đi vào cuộc sống chúng ta với ngay từ đầu của nó và mãi mãi không từ bỏ chúng ta” (Alếch-xan-đrơ Tra-đốp-xki). Nhận định này không chỉ khẳng định sức sống và khả năng tác động mạnh mẽ của thơ ca Pu-skin đối với đông đảo độc giả mà còn nói đến sự phong phú đa dạng trong sáng tác của ông. Ở Pu-skin, chúng ta có thể gặp một thanh niên quý tộc với tư tưởng chán chường, muốn xa lánh xã hội thượng lưu giả dối để đến với cuộc sống thanh bình, tự do chốn thôn quê. Cũng có thể gặp một chiến sĩ cách mạng với khát vọng tự do, hoặc một nhà cải cách xã hội có tư tưởng tiến bộ, và còn có cả một nhà văn hiện thực trong một nhà thơ tình lãng mạn. Quá trình sáng tác của Pu-skin là một quá trình vận động tư tưởng theo chiều tiến bộ, từ một thanh niên quý tộc có tư tưởng tiến bộ nhưng còn xa rời nhân dân đến một chiến sĩ cách mạng ưu tú luôn vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nhưng cao hơn tất cả chúng ta gặp một nhân cách Pu-skin – một Con người đích thực ở mọi phương diện sống. Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc với rất nhiều điều kiện thuận lợi cho một cuộc sống vinh hoa nhưng là một Con người, nhà thơ đã không chấp nhận, đã nguyện làm một “ca sĩ của tự do”, trở thành kẻ thù của bọn cầm quyền. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho khát vọng về một xã hội tốt đẹp, tự do và bình đẳng. Sáng tác của Puskin là lí tưởng cao cả về những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống, trong đó có tình yêu – tình cảm tuyệt vời nhất của cuộc đời. 

Tình yêu là một đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Không có nhà thơ nào lại không nói đến tình yêu trong thi phẩm của mình. Mọi cung bậc tình cảm, mọi biến thái của tinh vi và những rung động tinh tế của tâm hồn con người đều xuất hiện trong thơ ca. Tình yêu là một thứ tình cảm rất phức tạp, có khả năng đưa con người trở thành thiên thần nhưng cũng có thể biến con người trở thành quỷ dữ. Và điều mà thơ ca hướng đến là lí tưởng về những tình yêu đẹp, tình yêu thánh thiện. Pu-skin là một nhà thơ tình yêu như thế. Thơ tình của ông là sự kết hợp của tình yêu nhân loại và tình yêu con người. Ông sáng tác cả thơ trữ tình và văn xuôi, và đều thành công. Ở mảng thơ trữ tình, nhà thơ quan tâm đến hai đề tài lớn : đề cao khát vọng tự do và khám phá đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân lao động (thể hiện ở mảng thơ về tình yêu). 

Những trải nghiệm của chính bản thân và sự nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã giúp nhà thơ phát hiện và thể hiện vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Nhà thơ đã phát hiện và xử lí các tình huống của tình yêu theo chuẩn mực đạo đức của nhân dân lao động. Những tình cảm cao đẹp mà nhà thơ ca ngợi đối lập hoàn toàn với cuộc sống nhơ nhớp bẩn thỉu của xã hội thượng lưu, cái xã hội mà tình yêu chỉ là sự chiếm đoạt, ích kỉ. 

Trong các trường ca như Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin, Đoàn người Tsư-gan, Người tù Cáp-ca-dơ, nhân vật chính của Pu-skin đều là những thanh niên quý tộc chán ghét tình yêu chốn thượng lưu đi tìm tình yêu ở nơi khác, nhưng rồi bản tính ích kỉ trong tình yêu của những thanh niên quý tộc mà họ không bỏ được vẫn đưa họ đến những bi kịch. Tình yêu với họ đã từng chỉ là những trò chơi, những cuộc chinh phục, sự ghen tuông có thể dẫn đến những cuộc đấu súng một mất một còn (E. Ô-nhê-ghin và Len-xki trong Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin), họ sẵn sàng giết chết người yêu khi cảm thấy bị phản bội (A-lê-cô trong trường ca Đoàn người Tsư-gan), có lẽ tấn bi kịch cuối đời của Pu-skin cũng xuất phát từ chính những thành kiến kiểu quý tộc ấy mà Pu-skin đã không thể tự vượt qua. Những mối tình thượng lưu kiểu ấy đã khiến nhà thơ suy ngẫm về một tình yêu đích thực. Cảm hứng về một tình yêu cao thượng đã được gửi gắm trong hình tượng nhân vật trữ tình của bài thơ Tôi yêu em. Dưới hình thức một lời tỏ tình là khát vọng về một tình yêu chân chính với tình cảm cao thượng. Bài thơ là sự kết hợp tuyệt vời của một lí trí sáng suốt và một trái tim biết yêu thương thực sự. Mạch cảm xúc của bài thơ tự nó đã chia thành hai phần dưới hình thức hai câu, mỗi câu bốn dòng thơ. Và trong mỗi câu thơ lại có hai vế. Một kết cấu hài hoà cân đối đã làm nên vẻ đẹp của bài thơ nhưng không làm suy giảm sự tinh tế của cảm xúc. Thơ Pu-skin vốn rất giản dị, gần gũi cuộc sống. Những hình ảnh biểu tượng trong thơ ông thường dễ hiểu nhưng rất có chiều sâu. Hiểu ở mức độ nào phụ thuộc vào sự đồng cảm và rung động của trái tim người đọc. Thế nhưng điều mà bất cứ độc giả nào cũng cảm nhận được chính là những giá trị đạo đức trong thơ Pu-skin. Những vần thơ trong sáng và đầy cảm hứng nhân văn của ông có khả năng tác động rất mạnh mẽ đến tâm hồn người đọc. Và tình cảm cao đẹp của nhân vật trữ tình trong Tôi yêu em có thể tạo nên khả năng thanh lọc tâm hồn đối với nhiều thế hệ bạn đọc.

Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình “tôi” được bắt đầu bằng một lời thổ lộ rất chân thành :

Tôi yêu em : đến nay chừng có thể 
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai ;

Có thể nhận ra một sự không bình thường trong lời bày tỏ của nhân vật trữ tình. Đó không phải là một lời tỏ tình ở một giai đoạn bắt đầu một mối tình. Có vẻ như là một sự xác nhận về một tình cảm đơn phương từ phía “tôi”. Một tình cảm như đã từng bị cố làm cho lụi tàn nhưng nó lại “chưa hẳn đã tàn phai”. Hai dòng thơ, đơn giản là một lời xác nhận sự tồn tại của một tình yêu. Một tình yêu mà dù muốn cũng không thể nguôi quên. Nhưng điều đáng nói là mục đích của lời bày tỏ ấy. Mong muốn được đáp lại tình cảm hay thể hiện một điều gì khác :

Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.

Một mong muốn cao thượng chỉ có thể xuất phát từ một tình cảm chân thành của một trái tim biết yêu thương, biết hi sinh. Câu thơ đã xác nhận một chân lí của tình yêu là đã yêu thì không đòi hỏi, yêu là mong muốn những điều tốt lành đến với người mình yêu thương : “Tôi chẳng muốn em buồn vì bất cứ lẽ gì”.

Quả thực tình yêu đã nâng con người lên cao hơn. Mặc dù nhân vật “em” không xuất hiện trong bài thơ nhưng qua cảm nhận của nhân vật trữ tình thì đó phải là một người con gái rất đáng yêu. Chấp nhận âm thầm chịu đựng tình yêu đơn phương, nhân vật trữ tình đã nâng mình lên cao hơn.
Câu thơ đầu có sự tham gia rất mạnh mẽ của lí trí. Đây là giai đoạn mà lí trí vẫn điều khiển được trái tim. Ý thơ thẳng thắn, minh bạch và rất rõ ràng : còn yêu và rất yêu nhưng không muốn làm em phải suy nghĩ. Câu thơ như lời tự nhủ với chính mình với một quyết tâm rất cao. Nhưng nếu chấp nhận dễ dàng như vậy thì có vẻ lí trí quá và tình yêu của “tôi” đối với em chưa đủ sức thuyết phục, còn kém mãnh liệt. Sự mãnh liệt của tình yêu được thể hiện ở bốn dòng thơ tiếp theo : 

Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em. 

Dường như lí trí đã nhường chỗ cho cảm xúc. Những trạng thái cảm xúc phức tạp và đầy mâu thuẫn của trái tim đang yêu đã được bày tỏ rất chân thành. Sự tăng tiến của tình cảm, cảm xúc khiến câu thơ có khả năng truyền tải tình cảm mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Sức nặng của tâm trạng và trung tâm thẩm mĩ của bài thơ nằm ở câu thơ thứ hai này :

Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen, 

Một lần nữa, mối tình đơn phương lại được xác nhận. Vì không muốn em phải bận lòng thêm nữa nên phải “âm thầm”. Yêu không hi vọng, yêu đơn phương vẫn là tình yêu, thậm chí còn là một tình yêu rất sâu sắc. Có rụt rè có ghen tuông thì đích thị là tình yêu. Nhưng sự hờn ghen và không hi vọng ấy không làm giảm đi vẻ đẹp của tình cảm mà nhân vật trữ tình dành cho “em". Đó là một lời bày tỏ chân thành. Nhịp thơ dồn dập, liên tiếp xuất hiện các tính từ chỉ trạng thái cảm xúc, đã bộc lộ mức độ mãnh liệt của tình yêu. Trong bài thơ có tới ba cụm từ tôi yêu em thì hai cụm tập trung ở câu thứ hai và được gắn với những tính từ cảm xúc (âm thầm, không hi vọng, chân thành, đằm thắm). 

Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm, 

“Chân thành”, “đằm thắm” là hai phẩm chất mà mọi tình yêu đều muốn đạt tới, đó là tiêu chuẩn lí tưởng của mọi mối tình. Nếu thiếu hai “tiêu chuẩn” thì không còn là tình yêu nữa. Và mức độ chân thành, đằm thắm được xác nhận và cụ thể hoá một cách khéo léo và đầy thuyết phục ở dòng thơ cuối cùng :

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Tư tưởng và giá trị của bài thơ được cô đọng ở câu thơ này. Chỉ một lời cầu chúc thôi nhưng nói được bao điều. Nó khẳng định tấm tình chân thành của “tôi”, đồng thời thể hiện “tôi yêu em” là tình yêu mãnh liệt và chân chính. Câu thơ hội tụ vẻ đẹp của cảm xúc và cảm hứng của nhân vật trữ tình.

Nhìn lại mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ thì đây là bài thơ về một mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu. Và mạch cảm xúc của bài thơ được phát triển theo lôgíc tâm trạng nhưng có sự kết hợp rất khéo với lí trí. Sự hài hoà giữa cảm xúc và lí trí đã tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn cho bài thơ. Tâm trạng được thể hiện không quá bản năng nhưng cũng không quá nặng nề khô cứng. Cảm xúc có khi mâu thuẫn với lí trí nhưng lại được giải quyết một cách rất hợp lí, hợp với sự phát triển của mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Một tình yêu chân thành của một trái tim biết yêu thương thực sự đã thể hiện một tư tưởng nhân văn cao đẹp. Một vấn đề thuộc về đạo đức và nhân cách con người đã được nhà thơ thể hiện dưới một hình thức giản dị và giàu khả năng gợi cảm. Đây cũng chính là một trong những thành công nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Pu-skin.

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Lời cầu chúc giản dị mà thể hiện được cả một nhân cách. Đó là lời cầu chúc tuyệt vời nhất của nhân loại. Thói thường tình yêu thường kèm theo sự ích kỉ, ai đã yêu mà không từng “hậm hực lòng ghen”. Nhân vật “tôi” cũng như vậy. Nhưng sự ích kỉ không thể chiến thắng được sự cao thượng của một trái tim biết yêu thương. Nếu chỉ là lời cầu mong cho người mình yêu những điều tốt đẹp nhất thì đơn giản quá và không có khả năng thể hiện tình yêu như “cầu em được người tình như tôi đã yêu em”. Bài thơ là lời bày tỏ tình cảm, vì vậy cái ẩn ý đằng sau câu thơ, làm cho cảm xúc thơ chân thực hơn chính là ở lời cầu mong này. Lời cầu chúc cũng chính là lời khẳng định tình yêu chân thành và đằm thắm của mình, đó là tình yêu thực sự, tình yêu xứng đáng nhất với em. Đây không chỉ là một lời cầu chúc tuyệt vời nhất, thể hiện hay nhất tình cảm của “tôi” mà còn là một lời thổ lộ thật thông minh. Chấp nhận yêu đơn phương, chấp nhận sự thực là em sẽ có người khác nhưng lại nhấn mạnh và xác nhận tình yêu mãnh liệt của mình, liệu có mâu thuẫn không ? Liệu có cô gái nào yên lòng trước lời cầu chúc chân thành và đáng yêu như thế. Quả thực bài thơ thật đẹp, thật trong sáng. Với một tình yêu như thế dù được đáp lại hay không thì vẫn là một tình yêu lí tưởng, những trái tim yêu như thế sẽ giúp con người ngày càng người hơn.

Thơ trữ tình Pu-skin là kết quả của một tâm hồn được nuôi dưỡng bởi bầu sữa của văn hoá dân gian Nga nên luôn trong sáng, ngọt ngào và giàu giá trị nhân văn. Tôi yêu em là kết tinh xuất sắc nhất. Pu-skin cũng từng viết về những tình yêu không được đáp lại như thế nhưng với một trạng thái cảm xúc khác. Tình cảm cũng rất chân thành, mãnh liệt nhưng trái tim không được đáp lại thì không cao thượng, không sẵn sàng hi sinh như thế mà cay đắng và khắc nghiệt hơn : 

Giữa vườn xuân và bóng đêm tĩnh mịch 
Chim hoạ mi thánh thót bên nhành hồng
Nhưng đoá hồng kia chẳng chút động lòng 
Mà lặng lẽ đong đưa rồi thiếp giấc
Bản tình ca vẫn du dương và réo rắt. 

Tình cảm của chim hoạ mi  nhân vật trữ tình  cũng mãnh liệt và da diết, thậm chí rất kiên nhẫn mặc dù thái độ của “nhành hồng” rất lạnh lùng, lạnh lùng đến vô tâm. Có lẽ vì thế mà sự kiên nhẫn không được đáp lại ấy đã biến thành một tâm sự cay đắng, lời yêu ngọt ngào trở thành một lời chì chiết :

Vì sắc đẹp lạnh lùng người hót làm chi ?
Hỡi thi nhân hãy mau tỉnh dậy đi
Uổng công thôi người nhìn thấy đấy
Nó mơn mởn sắc hương lộng lẫy
Nhưng chẳng có gì xúc động cảm rung
Nó làm ngơ chẳng đáp lại tiếng lòng.
(Pu-skin, Con chim hoạ mi và nhành hồng)

Tất nhiên đây không đơn giản là một bài thơ thuần tuý nói chuyện tình yêu, mà còn là tâm sự của nhà thơ về cuộc đời. Dù sao trước hết nó vẫn là một bài thơ tình với hai hình ảnh thơ rất lộng lẫy “con chim hoạ mi” và “nhành hồng”. Hai nhân vật trữ tình ở hai bài thơ đều có chung một điều là đều yêu đơn phương nhưng lại có hai thái độ ứng xử hoàn toàn khác nhau. Một đòi hỏi được đáp lại ; một cao thượng và giàu đức hi sinh. Tôi yêu em là một định nghĩa chuẩn mực về tình yêu. Dù đơn phương hay song phương thì tình yêu cũng cần đức hi sinh và sự cao thượng. Sự ích kỉ sẽ biến lòng ghen tuông thành thứ thuốc độc giết chết mọi tình yêu. Trong trường ca Đoàn người Tsư-gan, mối tình giữa A-lê-cô và cô gái Tsư-gan là một mối tình ích kỉ. A-lê-cô từ chối và chạy trốn khỏi cuộc sống vương giả của xã hội thượng lưu, nơi mà theo chàng là : 

Cảnh giam hãm phố phường ngột ngạt
Một đống người nhung nhúc giữa đường
(Puskin, Đoàn người Tsư-gan)

để đến với cuộc sống tự do giữa thảo nguyên. Nơi đó chàng đã có một mối tình đẹp và đã từng “Chỉ mơ ước được yêu em mãi mãi”. Nhưng đến khi cô gái Tsư-gan quen với cuộc sống tự do đi tìm tình yêu khác cho mình, lòng ghen tuông đã biến chàng thành thú dữ :

Con không thể : con không chịu mất
Để cho người mà không giành giật
Ít ra con hưởng khoái trả thù.

Và chàng đã nhẫn tâm giết chết hai người trẻ tuổi. Có thể thấy tình yêu của A-lê-cô điển hình cho kiểu tình yêu ích kỉ của lớp thanh niên thượng lưu. Đoàn người Tsư-gan quen sống tự do và cao thượng không thể chấp nhận anh, như lời lão trượng nói khi đuổi A-lê-cô khỏi đoàn : 

Chúng ta sống man di không luật lệ
Chẳng nhục hình chẳng giết hại một ai 
Chẳng đòi người có tội phải đền bồi 
Chẳng đòi máu, chẳng đòi rên xiết.

Đó là phẩm chất của nhân dân. Họ yêu cuộc sống tự do và luôn cư xử rất cao thượng. Vì thế họ mới “sinh ra” thiên tài Pu-skin, họ mới có được tình cảm đẹp như Tôi yêu em. Họ chất phác và hồn hậu trong mọi mối quan hệ, vì thế những kẻ còn mang thói ích kỉ của quý tộc, tư sản không hợp với cuộc sống tự do của họ. A-lê-cô chán ghét xã hội thượng lưu nhưng chỉ biết đi tìm tự do cho riêng mình thì “Sinh ra không phải cho cuộc sống ngàn hoa nội cỏ”. Dù sáng tác ở thể tài nào, sáng tác của Pu-skin luôn thể hiện một tình cảm trong sáng và rất nhân văn. Thơ văn của ông vẫn luôn hướng đến những tình cảm đẹp đẽ và nhân đạo nhất.

Với thủ pháp nghệ thuật tạo sự tương phản giữa các vế của câu thơ, giữa hai câu thơ và ngôn ngữ thơ giản dị, giàu cảm xúc, Pu-skin đã thể hiện một quan niệm hoàn chỉnh về tình yêu. Đó là một tình yêu con người nhất. Đã có rất nhiều thi nhân viết về tình yêu và họ đều viết rất hay nhưng có lẽ Tôi yêu em là bài thơ giản dị, đời thường và chứa đựng nhiều nhất giá trị nhân văn. Với một trái tim biết yêu thương và một khả năng sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời, Pu-skin xứng đáng là "niềm tự hào không phải chỉ của văn học Nga mà của toàn bộ nền văn học thế giới”. Thơ tình của Pu-skin không chỉ chiếm được cảm tình của bạn đọc trẻ tuổi mà còn có sức tác động rất mạnh đến tâm hồn bạn đọc. Và một điều chắc chắn rằng Tôi yêu em là lí tưởng về một tình yêu đích thực, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến những nhà thơ tình xuất hiện sau ông. Một trong những luồng ánh sáng phát ra từ “mặt trời thi ca Nga” chính là thứ ánh sáng lung linh huyền ảo của một trái tim luôn yêu thương tất cả bằng một tình yêu cao thượng, kết quả và kết tinh của văn hoá Nga.

(Nguồn: Đọc hiểu Ngữ văn 11, NXB GD, 2007)

Phân tích Người trong bao - Sê-khốp

04:37 |
ITác giả Sê-khốp qua truyện ngắn Người trong bao đã phơi bày lối sống hèn nhát, co cụm, thủ tiêu đấu tranh, tự hạ thấp nhân phẩm và nhân cách con người của một bộ phận trí thức Nga cuối TK XIX, sự trì trệ, thụ động, lối sống co mình được thể hiện qua các nhân vật mà ông miêu tả trong truyện ngắn này là sản phẩm gắn liền với thời kì lịch sử đó. Lối sống đó đã làm hạ thấp giá trị nhân phẩm của con người, biến con người thành một nô lệ tự nguyện, chỉ răm rắp phục tùng mà không hề biết phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra một cơ chế sống giả tạo, máy móc, rập khuôn. Nhà văn cho rằng “không thể sống như thế mãi được”. Ông phủ nhận xã hội đương thời và nhiệt tình cổ vũ cho một xã hội mới tốt đẹp hơn. Ông chứng minh một cách thuyết phục về những cái xấu xa đang tồn tại để chỉ cho mọi người thấy trách nhiệm của họ là phải thanh toán những cái xấu xa, lạc hậu ấy.
Truyện ngắn của Sê-khốp có dáng vẻ độc đáo riêng. Đó là hình thức nhỏ, nhưng mang nội dung lớn, không rườm lời nhưng ý thì lại sâu sắc, có sức gợi lớn, nhằm tạo ra khả năng liên tưởng giữa độc giả và văn bản, giữa tác giả và độc giả. Truyện ngắn Người trong bao được sáng tác năm 1898, trong thời gian Sê-khốp đi dưỡng bênh tại thành phố I-an-ta trên bán đảo Crưm thuộc biển Hắc Hải. Trước hết, câu chuyện được kể trong truyện ngắn Người trong bao về nhân vật kì cục Bê-li-cốp là do nhân vật Bu-rơ-kin, một GV và là đồng nghiệp của Bê-li-cốp, kể lại cho bạn anh ta, bác sĩ thú y I-van I-va-nứt.
Trong đoạn trích, nhân vật chủ yếu được tái hiện từ góc nhìn của người kể chuyện, của tác giả và người nghe kể chuyện là Bê-li-cốp. Qua cuộc trò chuyện giữa hai trí thức - một thầy giáo trường làng Bu-rơ-kin và bạn ông ta, bác sĩ thú y I-van I-va-nứt – nhân vật Người trong bao hiện ra. Đó là thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp cổ Bê-li-cốp, tác giả dường như chỉ là người ghi chép lại một cách tình cờ câu chuyện nghe được. Song đây là cách kể khách quan.
Bê-li-cốp xuất hiện qua lời kể như là một điển hình cho loại người trong bao, loại người luôn tự tìm cho mình một cách thức bao gói để tự co mình lại vì sợ cuộc sống đang diến ra ồn ã xung quanh. Y sợ và “ghê tởm” hiện tại cho nên hướng về quá khứ, “luôn ngợi ca những gì không có thật”. Nghề nghiệp của y là dạy tiếng Hi Lạp cổ, thứ tiếng này cũng là một hình thức bao gói, giúp anh ta ẩn sâu hơn vào quá khứ mà trách đi cái hiện thực đang diễn ra. Chạy trốn hiện tại cũng có nghĩa là từ chối tương lai, từ chối cái sẽ đến hoặc sẽ phải đến. Tìm về quá khứ, kể cả quá khứ không có thật, chính là sự vô trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời. Chui vào bao, tự tìm cho mình những cái bao để che chở đã trở thành lối sống của Bê-li-cốp, trở thành “thói quen kì cục” của nhân vật này. Lối sống đó trở thành nỗi ám ảnh triền miên đối với mọi người, vì chẳng ai biết là y muốn gì, cần gì và lại càng không biết phải nói với y thế nào. Y đã khống chế cả trường học, cả thành phố “suốt mười lăm năm trời”. 
Trong việc khắc hoạ nhân vật, Sê-khốp thường sử dụng nhiều chi tiết tưởng chừng “vặt vãnh”, “nhỏ nhoi”, “tầm thường” như giày, ô, mũ, bông nhét tai,... Và đặc biệt là hình ảnh “cái bao” .
Có thể phân tích hình ảnh cái bao qua ba cấp độ :
Hình ảnh “cái bao” qua các vận dụng hàng ngày của Bê-li-cốp.
Hình ảnh “cái bao” qua công việc hàng ngày.
Hình ảnh “cái bao” thường trực trong tư tưởng.
Cách kể của tác giả qua đoạn trích tỉ mỉ, chậm rãi thể hiện qua giọng văn mỉa mai, giễu cợt, vừa hài hước vừa ngậm ngùi, chua xót đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật lớn, tác động thức tỉnh độc giả mọi thời đại.
II. Để hiểu rõ ý nghĩa người trong bao, đầu tiên ta cần tìm hiểu ý nghĩa của cái bao: 
1. Xét về nghĩa đen: Vật dùng để bao gói bảo vệ đồ dùng khỏi những tác nhân có hại 
2. Xét về nghĩa bóng: Lối sống tính cách cần phê phán và bài trừ của Bê-li-côp 
Tú đó ta có thể rút ra "ý nghĩa hình tượng người trang bao là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong cuộc sống của bộ phận trí thức Nga đương thời, có ý nghĩa phổ quát cao mang tính quy luật".
III. "Người trong bao"- Sêkhốp là một trong những tác phẩm mới được đưa vàp trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Bởi đây là một tác phẩm văn học nước ngoài mới được đưa vào trong chương trình nên chúng ta gặp khá nhiều khó khăn trong việc tiếp cận tác phẩm. Trong phạm vi bài viết này, người viết sẽ tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật Bê-li-cốp.
Nhân vật Bê-li-cốp được xây dựng bằng 2 nghệ thuật cơ bản: nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình và nghệ thuật xây dựng nhân vật lưỡng diện.
Trước hết là nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình. Theo từ điển tiếng Việt thì điển hình được hiểu là kiểu mẫu và có khả năng tập trung nhiều tính chất tiêu biểu. Như vậy, một nhân vật điển hình phải là một nhân vật vừa mang những nét chung, khái quát lạ vừa mang những nét riêng, đặc biệt. Bê-li-cốp là kiểu người trong bao: ô trong bao, dao trong bao, suy nghĩ trong bao, khuôn mặt trong bao...Nét riêng của nhân vật này là tính cách trong bao, lối sống trong bao được đẩy đến đỉnh điểm. Như vậy, Bê-li-cóp là nhân vật có khả năng đại diện cho một kiểu người trong bao, một lối sống Mêsian- lối sống tiểu tư sản tầm thường, dung tục đã và đang tồn tại trong xã hội NGA cuối TK XIX-đầu TK XX.
Thứ hai, Bê-li-cốp là nhân vật lưỡng diện(2 mặt). Ở Bê-li-cốp tồn tại cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt tích cực: Bê-li-cốp luôn tuân theo những chỉ thị, thông tư của cấp trên. Như vậy, hắn là một thầy giáo chuẩn mực của nhà trường, một viên chức tận tuỵ với cấp trên và một công dân gương mẫu của nhà nước. Mặt tiêu cực: lối sông trong bao, thu mìnhmột cách thái quá, việc máy móc tuân theo những chỉ thị, thông tư của Bê-li-cốp biến hắn thành một con ốc hèn nhát trong xã hội. KHông chỉ vậy, tính lưỡng diện của nhân vật này còn được thể hiện ở điểm: Bê-li-cốp vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.Bê-li-cóp là tội nhânb vì hắn gieo rắc lối sống ấy vào tất cả mọi người. Mặt khác Bê là nạn nhân, là sản phẩm tất yếu của XH chuyên chế Nga cuôí TK XIX - đầu TK XX.

(nguồn:giangvien)

Tóm tắt vở kịch "Romeo và Juliet"

04:36 |
Ngày xưa, tại một thành phố nóng nực của nước Ý tên là Verona, người dân đã đối xử tồi tệ với nhau và họ còn khuyên nhắc vợ con, bạn bè phải thù ghét lẫn nhau, và các mối thù được truyền đi từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng tại thành phố Verona có hai gia đình Montague và Capulet căm thù nhau : các người già cãi nhau om sòm ngoài đường phố, làm mất nhân cách còn các người trẻ đánh nhau nơi công cộng khiến cho có kẻ mất mạng. Sự ngu xuẩn của hai gia đình này làm cho Hoàng Tử của thành phố tức giận, ông ta đã ra một đạo luật ngăn cấm việc gây lộn ngoài đường phố và kẻ phạm pháp sẽ bị xử tử hình. Hai gia đình Montague và Capulet đành phải phục tùng luật lệ nhưng thực ra, mối thù vẫn còn bên trong lòng của họ.

Khi thấy con trai Roméo không dính dáng vào các vụ tranh chấp, Hầu Tước và bà Montague rất vui mừng nhưng họ không hiểu tại sao con trai quý của họ không được vui tươi. Họ hỏi thăm Benvolio, người trong họ và cũng là bạn của Roméo thì sau đó, Benvolio mới khám phá ra rằng Roméo đang yêu. Và người yêu của Roméo là Rosaline, một cô gái rực rỡ, lại chẳng đáp lại mối tình này. Để làm cho Roméo vui lên, Benvolio đề nghị cả hai người nên cải trang, bí mật tham dự buổi dạ hội của gia đình Capulet. Rosaline cũng sẽ tới đó và Benvolio hứa rằng sẽ tìm cho Roméo một cô gái đẹp, xuất sắc hơn Rosaline. Nghe đề nghị này, Roméo linh cảm thấy một sự nguy hiểm nhưng rồi cũng đồng ý ra đi, cùng với Benvolio và Mercutio, một người bạn khôn khéo.

Tối hôm đó, gia đình Capulet tổ chức dạ hội lớn vì Bá Tước Paris sẽ tới hỏi Hầu Tước Capulet xem có thể xin kết hôn với Juliet, cô con gái duy nhất hay không. Bá Tước Paris là một người có họ hàng với Hoàng Tử Escalus và là nhân vật độc thân sáng giá nhất của Thành Verona. Gia đình Capulet nói rằng Juliet mới 13 tuổi, chưa từng biết yêu và còn quá nhỏ, chưa tới tuổi lấy chồng. Dù sao, Hầu Tước Capulet cũng xúc động và bảo con gái phải làm vui lòng Bá Tước Paris khi gặp nhau lúc khiêu vũ.

Vào đêm dạ hội đó, Juliet đã gặp Roméo. Paris và Rosaline đều bị bỏ quên. Hai người trẻ kể trên đã nhìn thấy nhau, gặp mặt nhau và khi ôm nhau hôn, họ đã yêu nhau sau đắm. Nhưng một người bà con của Juliet tên là Tybalt đã nhận ra Roméo. Tybalt là người nóng tính, cho rằng một người thuộc gia đình Montague đến dự dạ hội mà không được mời, và đây là một điều xỉ nhục, anh ta thề sẽ trả thù. Sau khi buổi dạ hội chấm dứt, Roméo và Juliet cùng tìm hiểu về người yêu mới. Khi Roméo tránh xa các bạn bè ồn ào và ẩn mình dưới một tàng cây thì không ngờ, địa điểm này lại ở ngay dưới cửa sổ căn phòng của Juliet. Rồi trên ban công thơ mộng, hai kẻ yêu nhau đã thề thốt với nhau và quyết định kết hôn trong vòng bí mật.

Cha Lawrence, một tu sĩ giòng Franciscan và là cha sưng tội của Roméo, rất bận tâm về sự say mê đột ngột của hai người trẻ nhưng cuối cùng đồng ý sẽ làm lễ cưới cho đôi trẻ với niềm hy vọng rằng cuộc hôn nhân của chúng sẽ chấm dứt mối hận thù lâu đời giữa hai gia đình. Thế nhưng, thế giới tình yêu bí mật của Roméo và Juliet lại sớm bị tổn thương nặng nề. Tybalt đang tìm cách trả thù và đã gặp Roméo cùng đi với Mercutio và Benvolio. Tybalt đã gọi Roméo là tên đểu giả và thách đấu gươm, nhưng Roméo đã từ chối, gọi Tybalt là "người anh em bà con" và thề rằng đã yêu danh tiếng của gia đình Capulet như thanh danh của gia đình mình. Các bạn của Roméo đều ngạc nhiên về lời khước từ của Roméo và anh chàng nóng tính Mercutio đã nhận sự thách đố. Khi Roméo xông tới ngăn cản cuộc đấu gươm thì Tybalt đã đâm chết Mercutio.

Roméo cảm thấy có tội về biến cố mới xẩy ra, lại giận dữ vì cái chết của người bạn thân, nên đuổi theo Tybalt. Một trận đấu gươm sinh tử đã diễn ra và Roméo đánh thắng. Chỉ sau khi Tybalt đã chết, Roméo mới nhận ra sự liều lĩnh của mình nên tìm cách lẩn trốn.

Juliet lúc này rất phấn khởi vì đám cưới sắp tới, thì được bà vú báo tin xấu : người anh họ Tybalt đã bị giết và Hoàng Tử Escalus đã cấm Roméo không được lai vãng trong thành Verona. Bà vú cũng cho Juliet biết hiện nay Roméo đang trốn trong phòng của Cha Lawrence. Juliet lại vui mừng vì sẽ được xếp đặt một buổi tối thương yêu với Roméo trước khi chàng này trốn đi khỏi Verona.

Thế rồi sự việc lại đi từ xấu đến xấu hơn. Hầu Tước Capulet rất đau buồn vì cái chết của Tybalt và cho rằng ông sẽ làm cho mọi người trong gia đình vui lên khi sắp đặt đám cưới của Juliet lấy Bá Tước Paris. Juliet lại đau khổ! Sự từ chối cuộc hôn nhân này sẽ làm cho cha mẹ cô đau khổ và ngay cả bà vú nuôi cũng khuyên cô nên lập gia đình với Bá Tước Paris. Không biết trông cậy vào ai, Juliet đành chạy đến nhờ vả Cha Lawrence.

Cha Lawrence chỉ còn một niềm hy vọng, nhưng đây lại là một chương trình mạo hiểm. Cha cho Juliet một liều thuốc, uống vào sẽ làm cho nàng tắt thở, có vẻ chết trong 42 giờ và trong khoảng thời gian này, Cha Lawrence sẽ cho người đi Mantua tìm kiếm Roméo và rồi Cha và Roméo sẽ tới ngôi nhà mồ, nơi mà Juliet sẽ sống lại. Roméo sẽ mang nàng đi xa và Cha Lawrence sẽ an ủi mọi người, sẽ công bố cuộc hôn nhân của đôi trẻ để họ có thể trở lại vui sống tại Verona. Juliet nhận sẽ uống liều thuốc.

Sáng ngày hôm sau, khi bà vú nuôi tới chuẩn bị cho Juliet mặc thử áo cưới thì thấy nàng đã thành cái xác không hồn. Niềm vui của gia đình Capulet đổi ra nỗi buồn vô hạn bởi vì đám cưới của cô con gái duy nhất, nay trở thành một đám tang.

Trong khi đó, Cha Lawrence gửi một người thông tin đi tìm kiếm Roméo thì người này lại bị phong tỏa giữa đường vì bệnh dịch đồng thời, kẻ hầu Balthasar của Roméo lại báo tin cho Roméo biết rằng Juliet đã chết. Roméo bèn đi tìm mua thuốc độc và cấp tốc tới ngôi nhà mồ của gia đình Capulet. Tới nhà mồ, Roméo thấy Bá Tước Paris đang than khóc cạnh xác Juliet và khi Paris từ chối không để Roméo đi qua, hai người đã đánh nhau và cuối cùng, Roméo đã giết chết Paris. Lời yêu cầu cuối cùng của Bá Tước Paris này là được chôn gần Juliet. Trong nhà mồ, Roméo khấn cầu Tybalt tha thứ nhưng rồi vẻ đẹp của Juliet đã làm cho Roméo thẫn thờ, không muốn sống. Chàng thề nguyền sẽ sống bên người yêu mãi mãi nên đã uống liều thuốc độc và tắt thở.

Khi đến giờ Juliet tỉnh dậy, Cha Lawrence tới nhà mồ thì đã thấy Paris và Roméo nằm chết nên sợ quá, Cha đã bỏ chạy. Tỉnh dậy, Juliet nhìn thấy người yêu đã chết rồi trong khi các người khác đang đi tới phía bên ngoài, nàng phải hành động gấp bằng cách dùng cây dao găm của Roméo và tự sát.

Cái chết bi thương của hai người trẻ tuổi đã đoàn kết lại hai gia đình trong nỗi sầu muộn. Không phải bằng cuộc sống mà bằng cõi chết, hai kẻ thương yêu nhau đã mang lại hòa bình cho các gia đình của chúng.

Phân tích đoạn trích "Người cầm quyền khôi phục uy quyền"

04:35 |
Ông nói gì với chị? Người đàn ông bị ruồng bỏ ấy có thể nói gì với người đàn bà đã chết? Những lời ấy là lời gì vậy? Chẳng ai trên thế gian này nghe được. Kẻ đã chết có nghe thấy không? Có những ảo tưởng cảm động có thể là những sự thực cao cả. Điều mà chẳng ai nghi ngờ là bà xơ Xem-pli-xơ, người độc nhất chứng kiến cảnh ấy, thường kể lại rằng lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết(1) (Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, tập 2, NXB Giáo dục, 2007, tr.79).

Cuối cùng thì người cầm quyền cũng khôi phục lại uy quyền của mình sau hơn hai mươi năm đổi mới và cải cách. [Đoạn văn trên được rút ra từ cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng của Victor Hugo Những người khốn khổ (1869)]. Đoạn trích giảng này từng được sử dụng trong sách giáo khoa trích giảng văn học cấp ba những năm tám mươi trở về trước, nay nó trở lại với bạn đọc học sinh trong một hoàn cảnh khác. Dĩ nhiên như một vòng tròn biện chứng, sự trở lại này sau hai mươi năm không hề là một sự lặp đơn thuần mà là có nâng cao thông qua cách hiểu, cách đọc mới cũng như theo yêu cầu của cách giảng dạy tích hợp mà người soạn sách dành cho học sinh. Sách giáo khoa đã sử dụng bản dịch duy nhất sau năm 1945 ở miền Bắc của nhóm dịch giả Lê Quý Đôn cho việc giảng dạy trong nhà trường. Đoạn văn trích trên nằm ở cuối phần thứ nhất, trọn vẹn chương 4 Người cầm quyền khôi phục uy quyền (l’autorité reprend ses droits) sau khi Giăng Van-giăng quyết định ra tự thú trước pháp luật để cứu một người bị Gia-ve bắt nhầm. Cảnh miêu tả cuộc gặp gỡ của ba người: Gia-ve, Giăng Van-giăng và Phăng-tin đang hấp hối dưới sự chứng kiến của bà xơ Xem-pli-xơ. Nhân vật bà xơ được nhắc đến một lần duy nhất trong cảnh không đóng vai trò đáng kể nào cho hành động kịch của cảnh truyện, nhưng giúp cho việc dẫn dắt cách diễn giải câu chuyện, định hướng người đọc.

Đoạn văn dịch gồm bảy câu, trong đó có bốn câu hỏi, một câu trả lời trực tiếp, một câu phức mở rộng miêu tả mang giọng điệu trữ tình cảm thán. Trong số bốn câu hỏi, xét thực chất chỉ có một câu được láy đi láy lại với những biên độ, chiều kích mở rộng khác nhau mang dấu ấn phong cách tu từ học rất rõ và tiêu biểu của Hugo. Ông nói gì với chị, đó là nội dung câu hỏi duy nhất được đặt ra. Nhưng với cách sắp xếp các câu được lặp ý trong đoạn văn theo trật tự đan xen ngắn-dài, nên người đọc như nghe thấy nhịp điệu luyến láy của thuật hùng biện. Câu khẳng định Chẳng ai trên thế gian này nghe được vừa láy lại ý hai câu hỏi trước (nói cái gì), vừa chuyển hướng sang câu hỏi tu từ cuối cùng để làm đà bật lên câu văn trữ tình quen thuộc của Hugo (hiệu quả việc nghe như thế nào). Câu văn vừa mang tính triết lý, lại vừa có tính khoa trương hùng biện, vừa để trả lời lại vừa để suy tư thông qua phần miêu tả. Sự kết hợp của những hình ảnh tương phản trong câu văn: nụ cười và cái chết, nhợt nhạt và xa xăm, bà xơ (đại diện cho đức Chúa) và Phăng tin (từng làm nghề bán thân) đã làm cho câu văn mang giọng điệu tha thiết, buồn nhưng không đau xót. Nghệ thuật trữ tình hùng biện này, hẳn là Hugo học được trong các tác phẩm cổ đại, đã góp phần làm cho tác phẩm của ông mang âm vang sử thi.


Các thao tác diễn giảng truyền thống như thế góp phần truyền cảm hứng đọc thông qua việc khám phá những thủ pháp nghệ thuật thiên về tu từ học. Thế mà có một câu hỏi bỗng được đặt ra: ai nói trong đoạn văn trên? Nói với ai? Cách đọc truyền thống sẽ trả lời rằng đó chính là Hugo. Theo cách nói mới hơn, người ta có thể trả lời rằng ở đây là chuyện giữa người kể chuyện (narrator/narrateur) và người nghe kể (narrataire). Trả lời câu hỏi này, chúng ta rẽ sang hướng nghiên cứu văn bản.

Chính thực người kể chuyện toàn năng (narrateur omniprésent) – nhân vật thường gặp trong tiểu thuyết cổ điển, trong đó có Hugo – là kẻ dẫn chuyện duy nhất cho tác phẩm cũng như trong đoạn trích này. Người kể chuyện đó hiện ra với tư cách người biết hết, thông báo cho người nghe tất cả mọi chuyện. Kẻ ấy thâm nhập vào mọi ngóc ngách tâm hồn của tất thảy các nhân vật, để mách bảo cho người nghe chuyện, để báo trước cho người nghe. Ông ta có thể nói tất cả hay chỉ một phần nhằm phục vụ cho tiến trình kể chuyện của mình, lựa chọn những điều cần nói ở từng thời điểm sao cho câu chuyện trở nên hấp dẫn. Có thể hiểu một cách đơn giản, ít nhất là ở đoạn trích này, đó chính là tác giả. Mặc định là người kể toàn năng trong các tiểu thuyết cổ điển luôn có quyền lực dàn xếp tất thảy mọi thứ cho phù hợp với ý đồ riêng mình. Người nghe chuyện (narrataire) có thể hiểu một cách đơn giản chính là người đọc. Do thế, trong một số trường hợp khi nhân vật được bạn đọc yêu thích, họ có thể yêu cầu tác giả kéo dài tác phẩm để có được một kết quả như ý.

Quay trở lại văn bản của Hugo, câu phỏng đoán có những ảo tưởng cảm động có thể là những sự thực cao cả có thể là của chính người kể Hugo. Nó thực ra là một lời khẳng định theo lối hàm ẩn những chuyện mà Giăng Van-giăng đã và sẽ làm cho Phăng-tin (cứu Cô-dét khỏi nhà Tê-nác-đi-ê và nuôi dạy cô bé thành người). Người kể chuyện này giữ quyền chi phối góc nhìn của ít nhất là toàn bộ đoạn văn này, và nói chung là của toàn bộ tiểu thuyết. Người kể chuyện ấy thuyết minh, lý giải, trình bày cho người nghe, định hướng cách hiểu cho người đọc, không cho phép hiểu sai. Trong tiểu thuyết của Hugo cũng như của những nhà văn đương thời, ta bắt gặp mẫu hình người kể chuyện toàn năng (hay toàn tri – tùy theo cách diễn đạt). Có thể lấy một ví dụ như câu văn sau của Hugo cũng ở trong đoạn trích:

Chị không thể chịu đựng được bộ mặt gớm ghiếc ấy, chị thấy như chết lịm đi, chị lấy tay che mặt và kêu lên hãi hùng.

Câu kể dường như miêu tả từ điểm nhìn của nhân vật với động từ thấy, chủ ngữ là chị (chỉ Phăng-tin), nhưng thực ra lại do người kể chuyện nhận xét với những tính từ gớm ghiếc, hãi hùng gắn với điểm nhìn từ bên ngoài. Chúng là lời định giá của người kể chuyện về cảm xúc, phản ứng của nhân vật chứ không thể là của nhân vật. Hãy hình dung, nếu là Phăng-tin, cô không thể diễn đạt một cách rõ ràng, minh bạch, và ngắn gọn những điều ấy đến như thế. Chính điều này lý giải vì sao tâm lý nhân vật của Hugo đơn giản, nguyên phiến. Tất cả các nhân vật đều chịu sự quản lý của một điểm nhìn, một giọng điệu duy nhất. Đơn giản là ông đã “chuyển mã” chúng theo một giọng điệu của chính mình. Giọng điệu của tiểu thuyết Hugo trở nên đơn thanh chứ không đa thanh như trong tiểu thuyết của Flaubert sau này. M. Bakhtine không xếp ông vào diện nhà văn đa thanh đã đành, mà ngay cả một nghiên cứu về phong cách và tính chất thực tại cuộc sống của E. Auerbach cũng không đặt ông vào dòng chảy các nhà văn hiện thực. Dù cho có sự xuất hiện nhiều loại ngôn ngữ xã hội khác nhau trong văn bản của ông thì không có nghĩa là ông với tư cách người kể đã chấp nhận chúng, cho phép chúng tồn tại một cách bình đẳng với mình. Giọng điệu của ông với tư cách người kể chuyện toàn năng luôn lấn át toàn bộ các giọng điệu khác, đồng hóa chúng, đưa tất cả về cùng một mặt phẳng, về cùng một góc nhìn và lập trường của người kể chuyện để đánh giá, phán xét mọi sự.

Trong cảnh này, có những đoạn vẫn như được nhìn dưới góc độ của nhân vật của Phăng-tin qua nhiều cách diễn đạt: chị lấy tay che mặt; nghe thấy tiếng Gia-ve, Phăng tin lại mở mắt ra; chị thấy tên mật thám... Nhưng như chúng tôi vừa nói ở trên, thực ra đó là một cách tạo điểm nhìn giả của Hugo nhằm tạo kịch tính cho cảnh. Ông “giả vờ” mượn con mắt của Phăng-tin - một kẻ ngoài lề xã hội cũng đã bị thanh tra mật thám Gia-ve truy đuổi - để miêu tả cuộc chạm trán giữa Gia-ve và Giăng Van-giăng, một cuộc chạm trán nảy lửa giữa người tù khổ sai có những chiêu trốn chạy tuyệt kỹ và một thanh tra mật thám mẫn cán, tài giỏi nhưng cũng cực kỳ khắc nghiệt. Việc mượn điểm nhìn này về cơ bản sẽ diễn ra cho đến lúc Phăng-tin tắt thở, tức là hết lớp thứ ba. Cũng có những chỗ người kể chuyện trực tiếp tham gia việc bình luận cảm xúc nhân vật: Sự thật là Gia-ve run sợ. Lời bình luận ngắn gọn, ở đúng chỗ gay cấn nhằm chuẩn bị cho khoảng lặng sắp tới, của cuộc trò chuyện riêng tư giữa Giăng Van-giăng và Phăng-tin. Nó hé lộ cho bạn đọc một điều: Gia-ve không hẳn là con người của công việc và không bao giờ biết run sợ trước những kẻ khốn cùng. Lời trữ tình ngoại đề này sẽ chuẩn bị cho chi tiết Gia-ve phải lùi bước trước Giăng Van-giăng sẽ diễn ra ngay sau đó: nhường bước cho cuộc trò chuyện của người tù khổ sai và cô gái điếm. Nói cách khác, đó là một thuật kể chuyện kiểu Hugo nhằm làm lộ ra trong hoàn cảnh này, trong chương này, đứng trước con người nắm cán cân công lý của xã hội vốn không bao giờ biết nhân nhượng không hẳn là một tên tù khổ sai và một gái điếm, mà là những con người có tâm hồn lương thiện.

Cách mượn điểm nhìn này gợi chúng ta nhớ đến nghệ thuật dựng kịch của Shakespeare trong vở Hamlet. Theo phân tích của Vygosky, người nghệ sĩ đã khéo léo đưa toàn bộ điểm nhìn của khán giả vào điểm nhìn của chính nhân vật Hamlet. Do thế đã diễn ra một sự va chạm giữa ba dòng thời gian: thời gian thực mà vở kịch diễn ra, thời gian quy ước mà nhân vật Hamlet có để đi từ chỗ biết sự thật đến chỗ quyết định hành động, và thời gian mà khán giả tự hình dung. Chính sự giao thoa ấy (Vygosky gọi là vòng cung nghệ thuật) đã khiến cho vở kịch này của Shakespeare trở nên đa nghĩa. Đoạn văn ngắn này của Hugo không thể có cái nghệ thuật được Shakespeare dồn toàn bộ tâm sức. Nhưng một so sánh như thế, có phần khập khiễng, cũng cho thấy sự dụng công trong nghệ thuật kể của Hugo. Toàn bộ cuộc chạm trán có thể chia thành bốn lớp, trong đó ba lớp đầu là qua cái nhìn của Phăng tin, còn lớp cuối là qua cái nhìn của một người khác mà chúng tôi sẽ nhắc tới ngay sau đây. Ba lớp đầu tiên thực ra cũng là ba mức phát triển của cuộc chạm trán qua tâm trạng Phăng-tin: lo sợ cầu cứu ông thị trưởng (từ đầu đến chị rùng mình), ngạc nhiên kinh hoảng khi chứng kiến sự đổi vai (ông thị trưởng bị túm áo cho tới khi Phăng tin run lên bần bật), và tuyệt vọng khi biết tin về đứa con. Cái chết của Phăng-tin được miêu tả trong đoạn văn kết thúc lớp thứ ba (kết thúc bằng câu văn đơn Phăng tin đã tắt thở) hết sức giản dị, chính xác với những mệnh đề đơn kế tiếp nhau. Bắt đầu từ đây là một điểm nhìn của một nhân vật khác: bà xơ Xem-plit-xơ. Nhưng dấu hiệu cho thấy cảnh được nhìn qua con mắt của bà xơ này, người đọc lại chỉ nhận ra ở những dòng gần cuối khi Giăng Van-giăng trò chuyện với người đã khuất.

Có thể thấy dấu ấn của người kể chuyện qua lối miêu tả ám gợi (của chủ nghĩa lãng mạn) trong tình huống mà người đọc nhận ra. Chẳng hạn tư thế của nhân vật Gia-ve trước Giăng Van-giăng. Thoạt tiên là tiếng thét của Gia-ve đi kèm với lời bình của ngư¬ời kể chuyện: Không còn là tiếng ng¬ười nói mà là tiếng thú gầm. Hắn vừa gầm vừa như¬ thôi miên con mồi bằng động tác cứ đứng lì một chỗ, rồi phóng vào con mồi cặp mắt nhìn như¬ cái móc sắt. Sau đó hắn mới lao tới, tiến vào giữa phòng, ngoạm lấy cổ con mồi túm lấy cổ áo... Hắn đắc ý, phá lên cư¬ời, phô ra tất cả hai hàm răng. Thế là hình ảnh Gia-ve trong con mắt người kể chuyện, hay là của chính Phăng-tin, như gắn liền với hình ảnh con thú ăn thịt đang chuẩn bị vồ mồi. Hiệu quả đạt được như thế một phần là nhờ vào chính cách mượn điểm nhìn của Hugo. Thêm nữa, mượn điểm nhìn làm cho câu chuyện được kể thêm phần gay cấn. Người đọc được đẩy về phía tâm trạng của nhân vật nữ Phăng-tin, người đang quan sát tình thế truyện dường như liên quan đến chính số phận của mình. Cũng như thế với hình ảnh Giăng Van-giăng ở cuối đoạn trích trước cái chết của Phăng-tin. Ông ngăn cản Gia-ve một cách đầy uy quyền, rồi ông cúi xuống thì thầm với Phăng-tin làm cho cô như hé nụ cười trước khi bước vào cõi vĩnh hằng. Đó là một người bảo trợ, một Đấng cứu vớt đối với những người cùng khổ như Phăng-tin. Khuôn mặt rạng ngời của Phăng-tin tỏa sáng cùng lời bình (chết tức là đi vào bầu sáng vĩ đại) làm hình ảnh của Giăng Van-giăng giống hình ảnh Đức Chúa của Hugo trong tôn giáo Tình thương.

Nhân vật bà xơ, như chúng tôi đã nói ở trên, gắn với lớp cảnh thứ tư và là nhân vật duy nhất trong truyện chứng kiến cảnh này, theo lời người kể chuyện. Bà chỉ được nhắc đến trong chương truyện sau khi Phăng-tin tắt thở. Trong lớp cuối cùng này, người ta chỉ còn thấy hai nhân vật, nhưng thực ra là một con người đang trò chuyện. Đó là Giăng Van-giăng. Như thế là người kể chuyện đã đột nhiên loại bỏ Gia-ve ra khỏi khung cảnh quan sát của mình. Nói cho chính xác thì nhân vật bà xơ cũng dường như đột nhiên hiện ra trong khung cảnh câu chuyện, và cũng sẽ đột nhiên bước ra khỏi cảnh không nguyên cớ. Dù rằng trước đó đã có hình ảnh chiếc giường dành cho các xơ trong những hôm trực đêm, nhưng chừng đó không đủ để cho thấy nhân vật này đã hiện diện một cách đầy đủ trong cảnh. Câu văn người duy nhất chứng kiến cảnh ấy như gợi ý cho ta một điều: phải chăng tất cả những cảnh vừa chứng kiến cũng được miêu tả qua con mắt của chính bà? Như vậy ở đây đã diễn ra một quá trình loại bỏ dần dần tất cả các nhân vật và điểm nhìn nhân vật. Quá trình đơn giản hóa ấy giúp tập trung điểm nhấn vào hai nhân vật như là hai võ sĩ đang thượng đài: Gia-ve và Giăng Van-giăng qua con mắt của Phăng-tin hoặc của bà xơ. Sự xuất hiện của bà xơ ở lớp cuối góp phần “chính danh hóa” cho những lời ngoại đề mà ngay sau đó người kể chuyện sẽ cất lên để ngợi ca hành động của Giăng Van-giăng. Sự xuất hiện bất ngờ này khiến cho lời ngợi ca mang âm hưởng thánh ca nhà thờ, như một lời rửa tội cho những kẻ nghèo khó vốn không bao giờ dám bước chân vào thánh đường, cho linh hồn người đàn bà phải bán thân để nuôi con được siêu thoát lên cùng Đức Chúa. Chính vì thế, Hugo mới hạ một câu kết cảnh, ngắn gọn nhưng cũng rất lãng mạn bởi tính chất tương phản trong bút pháp: chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại. “Điểm nhìn” của bà xơ thế là giúp người kể chuyện thơ hóa cái chết của nữ nhân vật. Cái chết không còn là điều gì nặng nề mà nhẹ nhàng, thanh thản đối với người phụ nữ này. Nó xua tan ám khí cho câu chuyện để chuẩn bị chuyển sang một cao trào mới ở cuối lớp kịch thứ tư.

Chúng tôi nghĩ rằng đó là một thủ thuật kể của Hugo mà thôi, chứ không phải điều bắt buộc. Có những chỗ không thể tìm thấy ai để mượn điểm nhìn thì người kể chuyện “xông thẳng” vào không gian tiểu thuyết để trình bày cảm xúc trữ tình. Những chương về cống ngầm của Những người khốn khổ hay con bạch tuộc trong Những người lao động biển cả là những ví dụ tiêu biểu.

Tới đây, người ta có thể tự hỏi, vậy bà xơ đã đi vào và biến mất khỏi cảnh truyện từ khi nào? Câu hỏi ấy thực ra không quan trọng nếu xét theo thỏa ước hư cấu mà đôi khi chúng ta vẫn nói với nhau: điều đó chỉ xảy ra trong truyện cổ tích/tiểu thuyết. Đặt câu hỏi như thế, người đọc đã chú ý tới chất có thực của sự kiện mà quên rằng mình từng tham gia vào một thỏa ước văn bản mà người kể chuyện đã chìa cho anh ta ngay từ những dòng đầu tiên: đừng cố đi tìm hiện thực có thật (bao gồm cả những trật tự tất yếu của cuộc sống) trong những văn bản hư cấu. Trong văn bản của Hugo, thỏa ước này còn một điều khoản đòi hỏi người đọc chấp nhận: tính chức năng của các nhân vật và hành động. Một loạt các yếu tố, cả con người lẫn đồ vật, đều chỉ mang tính chức năng. Thực chất, người kể chuyện của Hugo chỉ mượn họ, bà xơ hay Phăng-tin, như những bệ đỡ để đưa lên kính ngắm của mình. Họ chỉ có tính chất chức năng để cho diễn biến của cảnh, cuộc chạm trán giữa người tù khổ sai chạy trốn cả đời mình và người phục vụ pháp luật, diễn ra theo đúng ý đồ tác giả. Ngay cả hai nhân vật này rốt cục cũng chỉ mang tính chất chức năng. Vậy, tâm lý hay tính cách đều chỉ cần giản đơn mà thôi. Cứ theo trục ấy mà suy thì thực tế các nhân vật khác cũng đều chỉ là những nhân vật chức năng hoạt động trong một tổng thể kịch được sắp đặt của tiểu thuyết Hugo. Vì thế, không thể đòi hỏi ở họ những suy tư phức tạp, những ý nghĩa trừu tượng mang tính triết lý. Trừ phi chúng ta nói tới tính triết lý trong giọng điệu người kể chuyện của Hugo. Nhưng khi đó chúng ta lại bàn sang một loại không gian khác của văn bản. Đặc điểm nguyên phiến này quy định một loạt những đặc điểm khác trong tiểu thuyết của Hugo. Người ta không thể và không nên quy chiếu những điều được kể trong tiểu thuyết của ông vào thực tại đời sống đương thời, trừ phi tiến hành một nghiên cứu xã hội học văn học một cách có hệ thống. Mặc dù người kể chuyện miêu tả trong góc phòng có chiếc giường sắt đã ọp ẹp dùng để các bà xơ ngả lưng những hôm phải trực đêm, nhưng có lẽ chiếc giường ấy cũng không hiện thực hơn hình ảnh Phăng-tin hay Giăng Van-giăng. Nói như R. Barthes thì chiếc giường này không để nằm mà là để chứng minh sức khỏe của nhân vật Giăng Van-giăng, cũng như sẽ là một phương tiện để nhân vật này dùng cho việc đe dọa Gia-ve.

Phần trữ tình ngoại đề giữa người kể và người nghe này rõ ràng là lộ liễu, nó cũng nhấn mạnh thêm vào tính “ảo tưởng” của thế giới văn bản. Sự hiện diện của đoạn trữ tình ngoại đề khẳng định sự hiện diện của người kể chuyện toàn năng mà giới phê bình phương Tây thích sử dụng khái niệm ẩn dụ - nhưng cũng thích hợp trong hoàn cảnh này - đấng tạo hóa toàn năng (Démiurge). Tất cả mọi nguyên nhân, kết quả, trình tự câu chuyện được người kể chuyện ấy quyết định, đều quy về một mối là người kể chuyện đó. Thế giới đó không quy chiếu vào đâu ngoài chính nó. Người kể chuyện luôn hiện ra khi cần để thêm thắt những lời bình luận có cánh. Trong toàn tác phẩm có lúc là cả những trường đoạn dài trọn vẹn một chương như chương Paris dưới cánh cú bay hay về cống ngầm Paris chẳng hạn chỉ dùng để phô diễn tài miêu tả và hùng biện của Hugo. Không phải không có lúc chúng làm người đọc mệt mỏi, nhưng phải thừa nhận rằng chúng là những áng tản văn rất hay, giàu sức quyến rũ. Đoạn trữ tình ngoại đề này, sau cả một quá trình xung đột căng thẳng giữa các nhân vật, có thể gợi cho ta nhớ đến đoạn trữ tình trong sử thi Odyssée của Hy Lạp cổ đại (Uy-lít-xơ trở về) mà học sinh đã được học ở lớp 10. Đoạn văn ấy miêu tả cảm xúc những người thủy thủ sau những cơn bão đã đặt chân được lên đất liền với một niềm hạnh phúc lớn lao.

Nhưng có một sự khác nhau căn bản về nghệ thuật và ý thức về nghệ thuật trong việc sử dụng trữ tình ngoại đề. Nếu như nhà thơ Hy Lạp cổ đại miêu tả cảm xúc ấy như một cách nói ẩn dụ trực tiếp cho cảm xúc của chàng dũng sĩ Uy-lít-xơ thì nhà văn thế kỷ XIX lại sử dụng lối ẩn dụ nghệ thuật. Nếu Homère sử dụng đoạn ngoại đề như một phần tất yếu trong mạch thời gian của tác phẩm liên quan đến tư duy cổ đại, thì đối với Hugo lại là một thủ pháp nghệ thuật. Nếu với Homère, tất cả được trình lên cho người thưởng thức ở cùng một bình diện, thì với Hugo đó là một thủ pháp kéo giãn thời gian nhằm che giấu những điều khác(2). Có những điều đối với Homère là đích, thì với Hugo lại là phương tiện và ngược lại. Nói cách khác, trữ tình ngoại đề được Hugo sử dụng một cách có ý thức trong mối liên quan với lối tư duy duy lý, có tính nhất quán của thời hiện đại. Do thế, nó tạo ra được một hiệu quả mang tính thẩm mỹ: đó là sự chậm rãi, là khoảng lặng của thời gian kể sau một cao trào. Vai trò người kể-toàn năng tham dự vào việc điều tiết, giữ nhịp cho cảm nhận của người đọc thông qua sự phối hợp các dòng thời gian. Còn đối với Homère, ngoại đề là điều mà người kể chuyện hướng tới nhằm đưa người đọc, người nghe bước hoàn toàn vào trong không gian sử thi.

Trên kia, chúng tôi vừa nói tới dấu ấn người kể chuyện trong việc tạo điểm nhìn kể. Vai trò người kể chuyện của Hugo cũng được thể hiện thông qua cách xây dựng các lớp cảnh trong đoạn trích.

Trước tiên, mở đầu đoạn trích, người kể chuyện thông báo bằng câu “từ ngày ông thị trưởng gỡ cho Phăng tin thoát khỏi Gia-ve...”. Cách gọi này đặt một điểm nhìn từ phía một người dân thành phố với Giăng Van-giăng, ở đây có thể chính là Phăng-tin. Ngay sau đó, người kể chuyện đính chính và cho biết nên gọi ông là Giăng Van-giăng để trả nhân vật này trở về đúng vai của mình. Như thế là bằng cách thay đổi tên gọi, người kể chuyện đã thay đổi tình huống truyện đặt Giăng Van-giăng trở lại tình huống ban đầu của tiểu thuyết khi phải trốn chạy trước Gia-ve, chánh thanh tra mật thám. Với tư thế ấy, chúng ta bắt gặp lời lẽ đầy tự tôn, mà khiêm cung của Giăng Van-giăng với Gia-ve. Đó là lời lẽ của một tù khổ sai bỏ trốn trước ông thanh tra khét tiếng Gia-ve từng làm biết bao kẻ đầu trộm đuôi cướp phải khiếp sợ, người chưa bao giờ biết sợ trước bất kỳ những ai bị coi là vi phạm pháp luật. Thế mà lần này, ông ta lại run sợ. Trong lớp thứ ba, khi những lời van xin của Giăng Van-giăng với Gia-ve trở nên vô ích, thì những lời của Gia-ve với Giăng Van-giăng lại trở thành sự đe dọa với Phăng-tin dẫn tới việc Giăng Van-giăng vô tình làm lộ ra bí mật đối với Phăng-tin là chưa cứu được Cô-dét. Cái chết của chị khiến cho tình huống bất ngờ đảo ngược. Không còn van xin, khiêm cung mà là lời lẽ cứng rắn của Giăng Van-giăng với Gia-ve, của một người tù khổ sai hai mươi năm với ông chánh thanh tra đại diện cho chính quyền và luật pháp. Thêm vào đó là hành động mang đậm chất kịch của nhân vật khiến cho chính Gia-ve phải lùi bước. Giăng Van-giăng đã khôi phục lại quyền uy của mình trước Gia-ve, nhưng không phải nhờ vào chức thị trưởng mà do nghĩa vụ mà ông tự đặt với mình trước người đã khuất. Cái chết của Phăng-tin mang lại sức mạnh cho ông. Đến dòng cuối cùng của đoạn trích, khi Giăng Van-giăng đã hứa xong với người đã khuất, chúng ta lại chứng kiến một sự đảo ngược thú vị: Giăng Van-giăng tự giao nộp mình cho Gia-ve - người đại diện cho pháp luật. Đây chính là cao trào thứ hai của chương truyện và đoạn trích sau cao trào thứ nhất khi Phăng-tin chết và ông thanh tra bị tên tù khổ sai đe dọa. Người kể chuyện lần này không như thói thường thâm nhập vào đầu óc của nhân vật để mách bảo mọi thứ cho người nghe chuyện. Ông ta im lặng đúng ở cao trào. Lối dàn cảnh của người kể chuyện liên quan tới những lối tương phản đặc trưng trong thi pháp của Hugo. Việc lên tiếng mách bảo người đọc trong lúc dẫn chuyện tạo tình huống và im lặng trong những khoảng cao trào của người kể chuyện tạo nên nhiều dư âm trái ngược nhau cho người đọc(3). Nhưng các nhân vật của Hugo chắc chắn không phải là những con người đầy suy tư trong các tiểu thuyết của Stendhal, Flaubert hay Gide. Vì thực chất họ chỉ là những nhân vật chức năng.

Người kể chuyện toàn năng này cũng thể hiện quyền uy của mình thông qua việc đặt tất cả các nhân vật trong truyện ở ngôi thứ ba. Chúng ta có thể so sánh một cách đơn giản với truyện kể của Daniel Defoe Robinson Crusoe đã được giới thiệu trong chương trình cấp hai. Người kể chuyện xuất hiện trong vai trò nhân vật chính, tức là giữ ngôi thứ nhất. Vì thế về mặt nguyên tắc anh ta cũng không biết những chuyện khác xảy ra mà không có mặt mình. Dĩ nhiên vì kể chuyện kiểu cổ điển luôn mang tính quy ước nên người ta mặc định với nhau là câu chuyện đã xảy ra. Tức là kết thúc chuyện đã hoàn thành một cách rõ ràng, dù nhân vật chính trong vai người kể chuyện có gặp nguy hiểm đến đâu thì cuối cùng anh ta cũng vượt qua bình an vô sự để ngày nay ngồi kể lại cho bạn đọc. Nhân đây chúng tôi nghĩ cũng có thể nói thêm vài lời về vai trò và sự hiện diện người dịch trong tư cách người kể chuyện toàn năng thứ hai của bản dịch, ở đó người kể chuyện dàn xếp hệ thống đại từ tiếng Việt dành cho các nhân vật. Trong tiếng Pháp, người kể chuyện đối xử bình đẳng với các nhân vật bằng hệ thống đại từ, vì khó mà nói tới sắc thái đánh giá nhân vật thông qua vẻn vẹn chỉ hai đại từ: il (ông ta) và elle (cô ta). Người dịch tiếng Việt, với tư cách người đọc mẫu, phải chuyển đổi hai đại từ đơn sắc ấy của tiếng Pháp sang một hệ thống cực kỳ phong phú, nhưng cũng phức tạp vô cùng của đại từ tiếng Việt. Hệ chuyển đổi đó tất yếu đã bao hàm một cách mặc định cách đánh giá, dẫn giải của người dịch định hướng cho độc giả. Chúng ta thấy, Giăng Van-giăng thì được dịch là ông, cũng đại từ đó (il) thay cho Gia-ve thì được dịch là hắn, nhân vật Phăng-tin được dịch là chị từ chữ elle có thể được dùng trong tiếng Pháp chỉ cả bà xơ Xem-pli-xơ. Hệ thống đại từ đó đã phân xuất một cách vô tình và hữu ý, theo cách đánh giá của các dịch giả, các nhân vật trong đoạn trích và tác phẩm thành hai nhóm: những kẻ độc ác và những người lương thiện. Nhưng biết đâu đó lại chưa hẳn là chủ ý của Hugo? Chúng ta hãy hình dung một bản dịch khác dùng chữ hắn để chỉ Giăng Van-giăng, thị hay ả để chỉ Phăng-tin, ông để chỉ Gia-ve; khi đó chắc người đọc sẽ lại có một dịp khác để xem xét cách hiểu của mình với câu chuyện rất hấp dẫn và lý thú này với những cảm giác tương phản mới trong người đọc.

Cuối cùng, chúng ta chú ý tới tiêu đề đoạn trích. Người biên soạn giữ nguyên tên của chương sách dịch vốn thể hiện phong cách hùng biện độc đáo của Hugo, đồng thời thể hiện toàn bộ quá trình đảo ngược tình thế trong chương truyện. Là một nhà thơ thế kỷ XIX, ông ưa những lối diễn đạt giàu ý vị dựa trên sự lỏng lẻo, mơ hồ của kết cấu câu văn. Những dịch giả - có lẽ cũng là những trí thức nghệ sĩ - đã gắng truyền đạt điều ấy qua lối diễn đạt nhịp nhàng, mang âm hưởng biền ngẫu của thơ ca Việt Nam: l’autorité reprend ses droits được chuyển thành người cầm quyền khôi phục uy quyền. Chữ người cầm quyền ở số ít như trong trường hợp này còn có thể hiểu là người có uy tín, chứ không chỉ là nhà cầm quyền vốn luôn được dùng ở số nhiều (les autorités). Vậy ở đây có thể hiểu nó hướng một cách mơ hồ đến cả hai đối tượng, tùy theo sự lựa chọn của người đọc: Giăng Van-giăng và Gia-ve. Gia-ve trong những chương trước đã tự thấy xấu hổ vì dám “nghi ngờ” ông Ma-đơ-len. Sau khi đích thân Giăng Van-giăng ra tự thú thì ông ta thấy khả năng đánh hơi của mình không tồi. Thế là từ chỗ là chánh thanh tra mật thám nhưng cúi mình trước ông thị trưởng Ma-đơ-len, nay ông ta cảm thấy mãn nguyện vì đã giành lại quyền lực trước con mồi khổ sai trốn tù đã lẩn trốn mình trong bao năm. Đó là việc khôi phục uy quyền của ông ta được hiểu như là quyền lực nhà nước trong chữ droits. Mặt khác, như trên kia chúng ta đã thấy, có một sự chuyển đổi thế và lực giữa các cảnh trong truyện. Nhân vật Giăng Van-giăng trước tiên là một ông thị trưởng có uy tín trong những chương trước. Vì để cứu một người vô tội bị bắt oan mà ông ra tự thú trước tòa án. Bắt đầu chương truyện này, ông tự đặt mình vào vị trí tội phạm, không quyền lực, không sức mạnh. Trong cảnh hai và cảnh ba, ông từ chối sức mạnh của mình. Điều ấy được thể hiện thông qua lời khẩn cẩu chánh thanh tra mật thám Gia-ve. Nhưng cho đến cuối đoạn trích, ông lại trở thành người nắm giữ sự chủ động, với sức mạnh/quyền lực khiến chính Gia-ve - người chưa từng biết sợ ai và luôn khiến cho (theo lời người kể chuyện) mọi tên tội phạm hoảng sợ - phải lùi bước. Ông đã giành lại sức mạnh/quyền lực để làm những điều thuộc về nghĩa vụ mà ông tự đặt ra cho mình. Nghĩa vụ cứu và nuôi nấng cô bé Cô-dét, con của Phăng-tin. Chữ droits được dịch thành uy quyền còn có thể hiểu như là những nghĩa vụ tất yếu của một người trung thực như ông đã hứa trước người đã khuất. Chúng ta lại bắt gặp ở đây tính chất hùng biện, nghệ thuật tu từ thường gặp trong sáng tác của Hugo.

V. Hugo - nhà văn dưới con mắt nhiều nhà nghiên cứu văn bản học hiện đại không có những cách tân độc đáo hướng đến hiện đại. Tuy nhiên phong cách với những thủ pháp kể chuyện khéo léo tới mức bậc thầy của ông - dấu ấn của lối kể dân gian trong tiểu thuyết báo chí đương thời - vẫn để lại những dư âm thú vị, mang đến sự say mê cho người đọc. Sự phối hợp những thủ pháp, kỹ thuật kể chuyện của Hugo chỉ có ý nghĩa với người đọc, chỉ vượt được biên giới các quốc gia khi nó được chỉ hướng bằng một tình cảm cao cả. Đó là lý tưởng nhân văn, trân trọng giá trị con người.
Xúc cảm ấy đã thấm đẫm trong toàn tác phẩm, trong từng câu từng chữ, từng cách sắp xếp lớp cảnh. Những phân tích về mặt kỹ thuật như trên vẫn chỉ là một cách rất hạn chế, rất thô sơ để thấy rõ hơn xúc cảm và lý tưởng của ông mà thôi. Một bài đọc chi tiết, cẩn trọng toàn đoạn trích sẽ mang đến cho người đọc những xúc cảm không thể nói thành lời.